Đồng bào
Trong vô minh, trong trăn trở thời 2017 giữa bao ngổn ngang của tộc Việt, lẩn thẩn tìm nghĩa đồng bào trong tiếng Việt, tiếng nước ngoài và trong nhân gian.
Từ điển Tiếng Việt 2017 của Vietlex định nghĩa rằng đồng bào là những người cùng một giống nòi, một dân tộc, một tổ quốc với mình (hàm ý có quan hệ thân thiết như ruột thịt).
Tra google thì đồng bào là “people” trong tiếng Anh.
Tra Từ điển Oxford (http://www.oxfordlearnersdictionaries.com/…/engli…/people_1…) thì đồng bào chỉ là người dân chung chung.
Chuyển ngữ chỉ là tương đồng tương đối; có lẽ một số từ của Việt tộc khó tìm nghĩa sát trong ngoại ngữ.
Ai muốn hiểu thêm về nghĩa đồng bào thì đọc những dòng dưới đây:
TÌM NGUỒN GỐC CỦA QUAN NIỆM ĐỒNG BÀO
Hà Văn Thùy
Người bạn gửi cho tôi bài báo trên tờ Sài Gòn Giải Phóng nhan đề “Đồng bào là gì* và yêu cầu nhận xét.
Tác giả bài viết có biệt danh NGHÊ DŨ LAN tỏ ra là người hiểu biết, dẫn từ điển Thiều Chửu:
“ Bào là (cái) bọc, anh em cùng một cha mẹ gọi là đồng bào (anh em ruột). Nói rộng ra, anh bố gọi là bào bá (bác ruột), em bố gọi là bào thúc (chú ruột). Người trong một nước cũng gọi là đồng bào, nghĩa là cùng là con cháu một ông tổ sinh ra vậy”rồi bình như sau:
Cách giảng như Thiều Chửu (đồng bào: Cùng là con cháu một ông tổ sinh ra) có lẽ dễ làm “vừa bụng” không ít người quen nghĩ rằng “đồng bào” là một từ do người Việt sáng tạo ra. Đơn cử là Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (bản sửa đổi lần cuối lúc 08:43, ngày 25-1-2007) viết như sau (http://vi.wikipedia.org/…): “Đồng bào là một cách gọi giữa những người Việt Nam, có ý coi nhau như con cháu của cùng tổ tiên sinh ra. Từ đồng bào được sử dụng dựa trên truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm con” [sic] Truyền thuyết kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ và sinh ra một bọc trứng và nở ra một trăm người con là dân tộc Việt Nam ngày nay.”
Nếu hiểu lầm chỉ dân tộc nào vốn cùng từ một “bọc” của Âu Cơ đẻ ra mới được gọi “đồng bào” thì đương nhiên hai dân tộc Hoa và Khmer không thể gọi là “đồng bào”. Quan niệm này vừa sai, vừa nguy hiểm vì nó dễ đưa tới tinh thần phân biệt, kỳ thị (discrimination) làm phân hóa sự đoàn kết các dân tộc trong cùng một lãnh thổ quốc gia!
“Sự thật, người Việt đã vay mượn hai chữ “đồng bào” từ Hán ngữ, cho nên “đồng bào” không phải là một sáng tạo của người Việt dựa theo huyền sử một bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ như Wikipedia đã “tưởng tượng”! Ta dễ dàng thấy mục từ “đồng bào” trong các từ điển chữ Hán không do người Việt soạn, chẳng hạn:
1. Mathews’Chinese-English Dictionary (Shanghai: China Inland Mission and Presbyterian Mission Press, 1931), mục từ 6615-118 giảng là “uterine brothers; compatriots” (đồng bào huynh đệ là anh em một mẹ; người cùng một nước).
2. Từ điển Hán-Việt do Hầu Hàn Giang và Mạch Vĩ Lương cùng chủ biên (Bắc Kinh: Thương Vụ ấn thư quán, 1994, tr. 663) giảng đồng bào là: “Anh chị em ruột”.
3. Chinese-English Dictionary Online (www.chinese-learner.com/dictionary) giảng là “fellow citizen or countryman”, tức đồng bào là người dân cùng một nước.
Tóm lại, đồng bào đơn giản chỉ có nghĩa là người dân có cùng quốc tịch, là công dân của cùng một nước. Vậy thì nói đồng bào người Hoa, đồng bào người Khmer là hoàn toàn đúng, là xác định hai thành phần anh em trong đại gia đình Việt Nam gồm 54 thành phần mà ta thường gọi là 54 dân tộc.”
Tuy nhiên, từ khảo cứu của mình, tôi thấy như sau:
Từ hàng vạn năm trước, người Việt chủng Australoid đã sống khắp nơi trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Khoảng 5000 năm TCN, tại cao nguyên Hoàng Thổ miền trung Hoàng Hà, do người Việt tiếp xúc với người Mongoloid phương Bắc (những người cũng từ Việt Nam lên 40.000 năm trước nhưng do di cư riêng rẽ, giữ được nguồn gen thuần chủng, sau này sống tập trung trên đất Mông Cổ) sinh ra chủng Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam tăng nhân số, trở thành chủ thể của văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều, sau đó làm nên văn hóa Long Sơn nổi tiếng ở lưu vực Hoàng Hà. Vào thời điểm này 4000 năm TCN, những thủ lĩnh người Việt là Phục Hy, rồi Thần Nông xuất hiện. Vào khoảng năm 2879 TCN xảy ra việc Đế Minh chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương. Nước Xích Quỷ ra đời. Dân cư Xích Quỷ gồm ba thành phần là người da đen Indonesian, Melanesian và người Mongoloid phương Nam nước da sáng hơn; tất cả đều có gốc từ tổ Phục Hy, Thần Nông, là người Việt với tiếng nói cùng văn hóa Việt. Câu chuyện Lạc Long Quân-Âu Cơ cùng một bọc trăm trứng xuất hiện. Là những người đánh cá và đi biển thành thạo, dân cư Xích Quỷ đã giao thương bằng thuyền tới Đài Loan, Indonesia, Philippine, Việt Nam và hiểu các vùng đất này.
Trước đây ta chỉ biết nước Xích Quỷ huyền thoại. Năm 1936, các nhà khảo cổ Trung Quốc phát hiện văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ. Từ nguồn tư liệu khai quật phong phú, họ đưa ra kết luận: có nhà nước Lương Chử cổ đại, với kinh đô Lương Chử rộng 3.000.000 m2 còn ranh giới trùng khớp với địa bàn nước Xích Quỷ truyền thyết. Đó là nhà nước sớm nhất trong lịch sử phương Đông, trước nhà Hạ hàng nghìn năm mà chủ nhân là người Việt. Từ những vật khắc bằng ngọc cho thấy người Lương Chử được gọi là Vũ nhân hay Vũ dân, liên hệ với vật tổ chim- Hồng Bàng. Từ những khám phá này, có thể tin nhà nước Lương Chử chính là Xích Quỷ trong truyền thuyết.
Khoảng năm 2698 TCN xảy ra cuộc xâm lăng của người Mông Cổ phương Bắc vào Trác Lộc ở bờ nam Hoàng Hà. Trong trận này Đế Lai (văn bản Trung Hoa ghi là Xi Vưu) tử trận còn Lạc Long Quân đưa đoàn quân dân vùng núi Thái, Trong Nguồn vượt biển đổ bộ vào Nghệ An Việt Nam. Người Mongoloid phương Nam trong đoàn di tản hòa huyết với người Việt chủng Australoid tại chỗ, sinh ra người Việt thời Phùng Nguyên. Sự thể như sau:
Theo xác nhận của nhân chủng học, trước thời Phùng Nguyên, dân cư Việt Nam gồm hai chủng Indonesian và Melanesian, cùng thuộc loại hình Australoid, được gọi là người Việt cổ. Người Mongoloid từ núi Thái-Trong Nguồn theo Lạc Long Quân trở về lai giống với người Việt Nghệ An, sinh ra người Việt chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiện đại. Cụ thể hơn, lai với người Indonesian, cho ra người Mongoloid phương Nam điển hình (người Mường, Mán, Dao, Nùng, Tày, Thái…) và lai với người Melanesian sinh ra nhóm loại hình Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam (người Chăm, Khmer, các sắc tộc Tây Nguyên…).
Do hình thành như vậy nên dân cư trên đất Việt Nam có chung tổ tiên là người di cư về cùng với Lạc Long Quân nên tất cả cùng suy tôn Lạc Long Quân là tổ, còn các sắc tộc (ethnicity) đều là con trong dân tộc Việt.
Quân Mông Cổ chiếm Nam Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Các vương triều Hoàng Đế lấn đất mở rộng lãnh thổ, dân Việt vùng lưu vực Hoàng Hà tiếp tục di cư về phía Nam. Khoảng 2.200 năm TCN, do nhà Hạ lấn chiếm, nhà nước Xích Quỷ tan rã. Người Việt từ nước Xích Quỷ di tản tới Ba Thục, Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam, Đài Loan… Người di tản mang theo truyền thuyết một bọc trăm trứng tới nơi ở mới. Trên đất Ấn truyền thuyết của người Việt đi vào kinh Phật.
Truy nguyên nguồn gốc như vậy ta thấy truyền thuyết Một bọc trăm trứng phản ánh thực tế hình thành tộc Việt xuất hiện thời Xích Quỷ. Khi Xích Quỷ tan rã bộ phận người Việt sống trên đất Trung Hoa vẫn giữ truyền thuyết nguồn gốc của mình. Các nhà nước Trung Quốc về sau tiếp thu truyền thuyết này nhưng do không hiểu ý nghĩa sâu xa của nó nên đã giảng theo thực tế dân cư Trung Quốc, phục vụ ý đồ chính trị nên dù Trung Quốc có tới 5 chủng tộc khác nhau là Hán, Hồi, Mông, Mãn, Tạng thì họ vẫn dùng từ “đồng bào. Khái niệm “đồng bào” của người Việt cổ vốn chỉ mối quan hệ nội bào, đồng tộc, cùng tổ tiên, dòng giống. Trên đất Trung Hoa trở thành khái niệm quốc gia: Mọi chủng người trong một quốc gia đều được gọi là đồng bào! Nghĩa mở rộng này được ghi vào từ điển.
Các nhà soạn từ điển phương Tây thế kỷ XIX-XX là những học trò về văn hóa Hán hoàn toàn tin rằng, chữ vuông do người Trung Quốc sáng tạo, ghi chép những sự kiện lịch sử văn hóa Trung Hoa nên đã căn cứ vào tự điển Trung Quốc để soạn thảo từ điển của mình, như tác giả bài viết đã dẫn.
Cho tới cuối thế kỷ XX chưa ai khám phá ra thực tế bi hài là nhiều khái niệm hay từ của người Việt cổ trên đất Trung Hoa bị hiểu sai. Một chứng cứ tiêu biểu là câu “Lang bạt kỳ hồ, tái trí kỳ vĩ “ trong Kinh Thi. Hơn 800 năm nay, các đại nho Trung-Việt học theo Chu Hy, cho chữ “hồ” là cái yếm ở cổ con sói nên giảng sói bước tới dẵm phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi. Do vậy câu thơ mang nghĩa là: Tiến thoái lưỡng nan. Bạn đã bao giờ thấy con sói có yếm thòng xuống ở cổ chưa? Thực tế con sói không bao giờ có yếm ở cổ cả. Ngay cả bò là loài có yếm nhưng cũng chẳng bao giời yếm chùng xuống khiến nó dẵm phải khi bước đi! Sự thực, “hồ” vốn là chữ “hố” của người Việt, còn bạt do chữ “tạt”, “tụt” biến âm. Câu ca dao Việt vốn là: Sói tạt (tụt, ẩn nấp) vào hố, vẫn lòi cái đuôi; nghĩa là dấu đầu hở đuôi!
Điều bi hài cười ra nước mắt ở đây là: Chữ hay khái niệm đúng của người Việt, bị người Trung Quốc hiểu sai rồi biến thành kinh điển. Kinh điển Tàu được chuyển thành kinh sách Tây! Ông cha ta xưa học Hán tự nên hiểu sai, sái cổ phục các thầy Tàu. Con cháu bây giờ thông thái hơn, đọc được cả chữ Hán, chữ Anh, Pháp nên càng tin sái cổ những cái… sai rồi vênh vang đem về dạy (dọa) đồng bào mình. Lý lẽ chắc nịch hàng tấn: Sách Tàu nói, sách Tây nói?!
Chỉ có cụ Lạc Long Quân, cụ Hùng Vương từ trên cao xanh nghe mà cười ra nước mắt: Do vô minh nên cháu con tôn lũ dốt làm thầy rồi cúc cung học cái dốt!
Người Việt gọi đồng bào người Hoa, Khmer, Chăm, Ê Đê, Gia Rai… là theo quan niệm truyền thống, đó là những sắc tộc (ethnicities) cùng một huyết thống, cùng một bọc trong chủng tộc Mongoloid phương Nam của dân tộc Việt Nam.
Tháng Năm 2016
Bài viết liên quan:
Giá trị của kí lịch sử “Lần dấu người xưa Đào Duy Từ – 陶維慈”
“Thương nhớ ngàn xưa”, kí tình yêu & hôn nhân của Bác sĩ gia đình, Thạc sĩ nội khoa Đào Duy An
Điểm biên khảo “Ngày ấy Kon Tum”
Lan man “Ngày Sách 2021”
Cô đơn
Gia Định hoài niệm